Web Content Viewer
ActionsLãnh đạo, quản lý quốc phòng
(Bqp.vn) - Việt Nam xây dựng sức mạnh quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với quốc phòng
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định bản chất cách mạng, toàn dân, toàn diện, sức mạnh quốc phòng Việt Nam; quyết định thắng lợi sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Trong mọi tình huống, phải kiên quyết giữ vững sự lãnh đạo của Đảng, bảo vệ Đảng, Nhà nước và Nhân dân.
Đảng lãnh đạo quốc phòng bằng cương lĩnh, đường lối, chiến lược, các định hướng về chủ trương, chính sách trong lĩnh vực quốc phòng; thể chế hóa sự lãnh đạo của Đảng bằng hệ thống pháp luật, các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan. Đảng lãnh đạo quốc phòng thông qua các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên; đề ra và thực hiện cơ chế lãnh đạo quốc phòng; quy định chức năng, nhiệm vụ của cấp ủy đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở; lãnh đạo tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị trong xây dựng, hoạt động của nền quốc phòng toàn dân.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội nhân dân Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội nhân dân Việt Nam. Sự lãnh đạo của Đảng tập trung thống nhất vào Ban Chấp hành Trung ương mà trực tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, thông qua hệ thống tổ chức đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp và tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở trong Quân đội.
Hệ thống tổ chức đảng trong Quân đội được tổ chức từ Quân ủy Trung ương đến cơ sở, hoạt động theo Cương lĩnh, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Quân ủy Trung ương do Bộ Chính trị chỉ định gồm các Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng công tác trong Quân đội và một số Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng công tác ngoài Quân đội. Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng là Bí thư Quân ủy Trung ương. Các cấp ủy đảng (từ cấp trực thuộc Quân ủy Trung ương đến cấp chi bộ) ở cấp nào do đại hội đảng bộ (chi bộ) cấp đó bầu.
Quân ủy Trung ương tham mưu, đề xuất để Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quyết định những vấn đề về đường lối, nhiệm vụ quân sự và quốc phòng; lãnh đạo mọi mặt trong Quân đội. Phối hợp và hướng dẫn các cấp ủy đảng trực thuộc Trung ương thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các nghị quyết, chỉ thị của Quân ủy Trung ương về quân sự, quốc phòng. Trực tiếp lãnh đạo xây dựng Quân đội nhân dân, nền quốc phòng toàn dân; nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đảng, công tác chính trị, bảo đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội. Quân ủy Trung ương thực hiện chế độ quyết định tập thể đối với các vấn đề lớn như chủ trương, chương trình, kế hoạch thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng, các biện pháp xây dựng Quân đội, các vấn đề về công tác cán bộ trong Quân đội. Chỉ đạo Tổng cục Chính trị và thông qua Tổng cục Chính trị chỉ đạo các đảng bộ và hệ thống cơ quan chính trị, chính ủy, chính trị viên các cấp tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị nhằm xây dựng Quân đội vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ khả năng hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Hệ thống cơ quan chính trị của Quân đội nhân dân Việt Nam bao gồm Tổng cục Chính trị, các cục, phòng và ban chính trị ở các đơn vị. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư Trung ương Đảng và trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương. Căn cứ nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư; sự chỉ đạo, hướng dẫn của các ban đảng Trung ương, Tổng cục Chính trị nghiên cứu, đề xuất để Quân ủy Trung ương quyết định chủ trương, biện pháp về công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội. Căn cứ nghị quyết của Quân ủy Trung ương, mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị xác định kế hoạch tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị để chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện của các cấp trong toàn quân.
Tổng cục Chính trị chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra công tác tổ chức xây dựng Đảng; công tác cán bộ; công tác tuyên huấn; công tác bảo vệ an ninh quân đội; công tác chính sách; công tác dân vận,... trong toàn quân. Phối hợp với các cơ quan chức năng trong và ngoài Quân đội nghiên cứu, đề xuất với Đảng và Nhà nước ban hành các chính sách đối với Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ, hậu phương Quân đội; chỉ đạo, hướng dẫn xây dựng, củng cố tổ chức và hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Công đoàn, hội Phụ nữ. Phối hợp với các ban đảng, các đoàn thể của Trung ương, các cơ quan chức năng của Nhà nước để chỉ đạo, hướng dẫn công tác Đảng, công tác chính trị trong công tác quân sự, quốc phòng địa phương và trong xây dựng lực lượng Dân quân tự vệ, dự bị động viên ở các địa phương và ở các Ban, Bộ, ngành Trung ương. Phối hợp với các ngành có liên quan để kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện công tác điều tra, xét xử trong Quân đội. Chỉ đạo và tham gia nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn công tác Đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ; nghiên cứu, phát triển khoa học xã hội nhân văn quân sự, tham gia nghiên cứu khoa học nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Cơ quan chính trị của các đơn vị trong Quân đội tiến hành giáo dục, bồi dưỡng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chỉ đạo hướng dẫn xây dựng các đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh; hướng dẫn các đơn vị đấu tranh với các luận điệu chiến tranh tâm lý trên mặt trận chính trị, tư tưởng, chống lại các biểu hiện tư tưởng đối lập, thù địch; phối hợp với cấp ủy, chính quyền và các đoàn thể địa phương tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc.
Từ cấp trung đoàn và tương đương đến cấp quân khu và tương đương có chính ủy và cơ quan chính trị. Từ cấp đại đội và tương đương đến cấp tiểu đoàn và tương đương có chính trị viên. Chính ủy, chính trị viên là người chủ trì về chính trị; chịu trách nhiệm trước cấp trên và cấp ủy cấp mình về toàn bộ hoạt động công tác Đảng, công tác chính trị trong đơn vị; trực tiếp chỉ đạo, tổ chức tiến hành các nội dung công tác Đảng, công tác chính trị theo chức trách, nhiệm vụ; tham gia xây dựng, tổ chức thực hiện các kế hoạch công tác chung của đơn vị.
Người chỉ huy, chính ủy, chính trị viên được Đảng, Nhà nước và Quân đội giao cho những quyền hạn trong phạm vi, chức trách; chịu trách nhiệm trước pháp luật, cấp ủy, người chỉ huy, cơ quan chính trị, chính ủy, chính trị viên cấp trên và cấp ủy cấp mình về toàn bộ hoạt động của đơn vị theo phạm vi, chức trách, nhiệm vụ; phục tùng sự lãnh đạo của cấp ủy cùng cấp.
Người chỉ huy có trách nhiệm chấp hành và tổ chức thực hiện nghiêm túc chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên và nghị quyết của cấp ủy cấp mình về toàn bộ hoạt động của đơn vị. Trong quá trình thực hiện chức trách, nhiệm vụ, người chỉ huy phải báo cáo cấp ủy cấp mình về nhiệm vụ được cấp trên giao, đề xuất các chủ trương, biện pháp lãnh đạo để cấp ủy thảo luận, quyết định. Khi có tình huống khẩn cấp, người chỉ huy chủ động quyết đoán, xử lý kịp thời để hoàn thành nhiệm vụ, sau đó báo cáo và chịu trách nhiệm trước cấp ủy, người chỉ huy cấp trên và cấp ủy cấp mình.
Quan hệ giữa chính ủy, chính trị viên với người chỉ huy là quan hệ phối hợp công tác. Chính ủy, chính trị viên và người chỉ huy phải thường xuyên, chủ động liên hệ chặt chẽ với nhau trên tinh thần đoàn kết, thống nhất, tin cậy, tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau trong thực hiện nhiệm vụ; cùng chăm lo xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Người chỉ huy và chính ủy, chính trị viên phải kịp thời thông báo, trao đổi cho nhau biết các nghị quyết, chỉ thị và mệnh lệnh của cấp trên, thống nhất đánh giá tình hình, đề xuất chủ trương, biện pháp lãnh đạo, báo cáo cấp ủy, hoặc ban thường vụ cấp ủy quyết định; xây dựng kế hoạch, phân cấp tổ chức thực hiện nghị quyết và kiểm tra các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị thực hiện.
Quản lý nhà nước về quốc phòng
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện quản lý quốc phòng theo quy định của Hiến pháp và pháp luật. Nội dung cơ bản của công tác quản lý nhà nước về quốc phòng gồm ban hành và tổ chức thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng; xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách về quốc phòng; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, kế hoạch phòng thủ đất nước, kế hoạch động viên quốc phòng và bảo đảm cho hoạt động quốc phòng; tổ chức, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng; hợp tác quốc tế về quốc phòng và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc.
Nhà nước xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực lượng Dân quân tự vệ vững mạnh, rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng. Giáo dục quốc phòng, an ninh cho toàn dân; xây dựng công nghiệp quốc phòng; bảo đảm trang bị cho lực lượng vũ trang, kết hợp quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hóa - xã hội, kinh tế, văn hóa - xã hội với quốc phòng, an ninh; thực hiện chính sách hậu phương quân đội; bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ, công nhân, viên chức quốc phòng phù hợp với tính chất hoạt động của Quân đội.
Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là cơ quan duy nhất có quyền ban hành các luật liên quan đến chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước; quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia; tổ chức, xây dựng lực lượng vũ trang; thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động quốc phòng của Nhà nước.
Hội đồng Quốc phòng và An ninh gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên. Thành viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh do Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn. Hội đồng Quốc phòng và An ninh trình Quốc hội quyết định tình trạng chiến tranh; trường hợp Quốc hội không thể họp được thì trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội quyết định; động viên mọi lực lượng và khả năng của đất nước để bảo vệ Tổ quốc; thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn đặc biệt do Quốc hội giao trong trường hợp có chiến tranh; quyết định việc lực lượng vũ trang tham gia hoạt động góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế giới.
Chủ tịch nước thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và An ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng, chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng Tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, công bố, bãi bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương; quyết định cử lực lượng vũ trang tham gia hoạt động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc.
Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ban hành các nghị quyết, nghị định cụ thể hóa việc thực hiện các luật, pháp lệnh về quốc phòng. Chính phủ ban hành các chính sách củng cố quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang, lập quy hoạch, kế hoạch động viên quốc phòng; tổ chức, chỉ đạo thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng và các biện pháp cần thiết để bảo vệ Tổ quốc. Các Bộ, ngành, địa phương ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng theo quy định của pháp luật, giáo dục quốc phòng, hợp tác quốc tế trong một số lĩnh vực liên quan đến quốc phòng, bảo đảm đời sống vật chất cho lực lượng vũ trang và thực hiện các chính sách hậu phương Quân đội, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng.
Bộ Quốc phòng là cơ quan tham mưu cho Đảng và Nhà nước về đường lối, nhiệm vụ quốc phòng, quân sự bảo vệ Tổ quốc; chịu trách nhiệm trước Chính phủ về việc thực hiện quản lý nhà nước về quốc phòng; tổ chức thực hiện việc xây dựng, quản lý và chỉ huy Quân đội nhân dân, Dân quân tự vệ; quản lý các dịch vụ công theo quy định của pháp luật. Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là người chỉ huy cao nhất của Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ; là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng và An ninh, Phó Bí thư Quân ủy Trung ương; là thành viên Chính phủ chỉ đạo thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về quân sự, quốc phòng theo quy định của pháp luật; chủ trì hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược quốc phòng. Giúp việc cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có các Thứ trưởng, Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các tổng cục, Bộ Tư lệnh Thủ đô Hà Nội và các quân khu, quân chủng, Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng, các binh chủng, các quân đoàn, Bộ Tư lệnh Cảnh sát biển, Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng và các cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng.
Bộ Tổng Tham mưu là cơ quan chỉ huy, điều hành Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ; tổ chức, chỉ đạo sự phát triển của Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ, đồng thời chỉ huy các hoạt động quân sự. Bộ Tổng Tham mưu có Tổng Tham mưu trưởng, các Phó Tổng Tham mưu trưởng và các cục chức năng chịu trách nhiệm về tác chiến, huấn luyện chiến đấu, quân lực,... Tổng Tham mưu trưởng - Thứ trưởng Bộ Quốc phòng là người thay thế Bộ trưởng Bộ Quốc phòng điều hành các hoạt động của Bộ Quốc phòng khi Bộ trưởng vắng mặt. Tổng Tham mưu trưởng chỉ đạo các cơ quan, đơn vị trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu xây dựng chiến lược quân sự; quy hoạch, kế hoạch phòng thủ đất nước, chủ trì phối hợp, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc các Bộ, các cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp thực hiện các quy định pháp luật về quốc phòng; kiểm tra đôn đốc các đơn vị chấp hành kỷ luật Quân đội, pháp luật của Nhà nước, mệnh lệnh của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tổng cục Chính trị đảm nhiệm công tác Đảng, công tác chính trị trong toàn quân, hoạt động dưới sự lãnh đạo của Ban Bí thư và trực tiếp, thường xuyên của Quân ủy Trung ương. Tổng cục Chính trị có Chủ nhiệm, các Phó Chủ nhiệm và các cục chức năng chịu trách nhiệm về công tác tổ chức, cán bộ, tuyên huấn, bảo vệ an ninh quân đội, chính sách, dân vận,...
Các cơ quan chức năng cấp tổng cục của Bộ Quốc phòng gồm Tổng cục Hậu cần, Tổng cục Kỹ thuật, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng và Tổng cục Tình báo quốc phòng. Các tổng cục có Chủ nhiệm và các Phó Chủ nhiệm (riêng Tổng cục Tình báo quốc phòng có Tổng cục trưởng và các Phó Tổng cục trưởng); Chính ủy và Phó Chính ủy; cơ quan tham mưu, cục chính trị và các cục chức năng, các đơn vị trực thuộc.
Tổng cục Hậu cần là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng, có chức năng tham mưu, chỉ đạo, bảo đảm vật chất, sinh hoạt, quân y, vận tải,... cho Quân đội. Tổng cục Hậu cần gồm có các cơ quan chức năng chịu trách nhiệm về công tác tham mưu hậu cần, quân nhu, quân y, doanh trại, xăng dầu, vận tải và một số cơ quan, đơn vị trực thuộc khác.
Tổng cục Kỹ thuật là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng, có chức năng tham mưu giúp Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng lãnh đạo, chỉ đạo công tác bảo đảm kỹ thuật trong Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác bảo đảm kỹ thuật; chỉ đạo ngành Kỹ thuật toàn quân các nội dung công tác kỹ thuật trong Quân đội nhân dân và Dân quân tự vệ; quản lý, chỉ huy các cơ quan đơn vị thuộc quyền.
Tổng cục Công nghiệp quốc phòng là cơ quan trực thuộc Bộ Quốc phòng, cơ quan đầu ngành về công nghiệp quốc phòng, chịu trách nhiệm tham mưu giúp Quân ủy Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo công tác xây dựng và phát triển công nghiệp quốc phòng trong Quân đội nhân dân Việt Nam; giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp quốc phòng trên phạm vi cả nước; chỉ huy, quản lý các cơ quan, đơn vị thuộc quyền gồm các cục, phòng, ban chức năng thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Tổng cục; quản lý, chỉ đạo các công ty sản xuất, sửa chữa vũ khí, trang bị, các viện nghiên cứu, trường dạy nghề và các đơn vị trực thuộc khác.
Tổng cục Tình báo quốc phòng giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác tình báo. Tổng cục Tình báo quốc phòng là lực lượng trực tiếp thực hiện công tác tình báo ở cấp chiến lược; là cơ quan tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam về tổ chức lực lượng và hoạt động tình báo; đồng thời, là cơ quan đầu ngành trực tiếp chỉ đạo nghiệp vụ tình báo đối với hệ thống quân báo - trinh sát toàn quân.
Cục Đối ngoại Bộ Quốc phòng là cơ quan quản lý nhà nước về hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng của Quân đội, thực hiện chức năng tham mưu cho Thường vụ Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về chủ trương, phương hướng và biện pháp của công tác hội nhập quốc tế và đối ngoại quốc phòng; chỉ đạo, hướng dẫn và quản lý các hoạt động đối ngoại quốc phòng của Quân đội; lập kế hoạch và tổ chức các hoạt động đối ngoại quốc phòng được phân công; là đại diện của Bộ Quốc phòng trong quan hệ với đại diện các nước, các tổ chức quốc tế về lĩnh vực quốc phòng.
Tham mưu, giúp việc cho Bộ Quốc phòng có Văn phòng Bộ Quốc phòng (đồng thời là Văn phòng Quân ủy Trung ương) và các cơ quan chức năng khác. Ngoài ra, còn có một số cơ quan của Chính phủ được giao cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng quản lý.
Ban Cơ yếu Chính phủ là cơ quan mật mã quốc gia, quản lý chuyên ngành về cơ yếu, có trách nhiệm giúp Bộ trưởng Bộ Quốc phòng tham mưu cho Đảng, Nhà nước về công tác cơ yếu, thực hiện quản lý nhà nước về cơ yếu trong phạm vi cả nước; góp phần bảo đảm tuyệt đối bí mật, an toàn, chính xác, kịp thời thông tin phục vụ công tác lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, điều hành của Chính phủ, chỉ đạo, chỉ huy của lực lượng vũ trang nhân dân trong mọi tình huống; chủ động phòng ngừa, tham gia đấu tranh với các hoạt động thám mã gây phương hại đến an ninh quốc gia, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Cảnh sát biển Việt Nam là bộ phận của lực lượng vũ trang nhân dân, lực lượng chuyên trách của Nhà nước, là nòng cốt thực thi pháp luật và bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển; tham mưu cho Bộ trưởng Bộ Quốc phòng ban hành theo thẩm quyền hoặc đề xuất với Đảng, Nhà nước về chính sách, pháp luật bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn trên biển; bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trong vùng biển của Việt Nam; quản lý về an ninh, trật tự, an toàn và việc bảo đảm chấp hành pháp luật Việt Nam, điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Cảnh sát biển Việt Nam được tổ chức thành 4 vùng Cảnh sát biển (1, 2, 3, 4), trong mỗi vùng có Bộ Tư lệnh và các đơn vị trực thuộc. Cảnh sát biển Việt Nam được trang bị tàu, thuyền, máy bay, các phương tiện khác, vũ khí, vật liệu nổ, công cụ hỗ trợ và các thiết bị kỹ thuật nghiệp vụ để thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trên các vùng biển của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, vùng biển ở ngoài vùng biển của Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam, các thỏa thuận và điều ước quốc tế có liên quan mà Việt Nam là thành viên.
Cục Cứu hộ - Cứu nạn trực thuộc Bộ Tổng Tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, là cơ quan tham mưu đầu ngành cho Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Bộ Tổng Tham mưu trong việc chỉ đạo toàn quân thực hiện tốt nhiệm vụ phòng, chống thiên tai, cứu hộ - cứu nạn; là Văn phòng thường trực của Ủy ban Quốc gia tìm kiếm, cứu nạn, tham mưu cho Ủy ban Quốc gia tìm kiếm, cứu nạn và giúp Chính phủ chỉ đạo điều hành các lực lượng cả trong và ngoài Quân đội trong công tác cứu hộ - cứu nạn, giảm nhẹ thiên tai và khắc phục hậu quả các thảm họa.
Văn phòng Cơ quan Thường trực Ban Chỉ đạo quốc gia khắc phục hậu quả bom mìn và chất độc hóa học sau chiến tranh ở Việt Nam (gọi tắt là Văn phòng 701, đặt tại Cục Khoa học Quân sự) có nhiệm vụ tham mưu xây dựng và tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác của Cơ quan Thường trực và Ban Chỉ đạo; phối hợp với Trung tâm Hành động bom mìn quốc gia Việt Nam (VNMAC, đặt tại Bộ Tư lệnh Công binh) và Trung tâm Hành động quốc gia khắc phục hậu quả chất độc hóa học và môi trường (NACCET, đặt tại Bộ Tư lệnh Hóa học), là hai Trung tâm của Chính phủ triển khai tuyên truyền, hợp tác, vận động tài trợ trong nước và quốc tế nhằm tăng cường nguồn lực hỗ trợ hoạt động khắc phục hậu quả bom, mìn và chất độc hóa học sau chiến tranh ở Việt Nam.
Phương hướng tăng cường lãnh đạo, quản lý về quốc phòng
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quốc phòng là nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Cơ cấu tổ chức Đảng trong lãnh đạo công tác quốc phòng được xây dựng thống nhất, đồng bộ từ Trung ương đến các địa phương, nhất là cấp quân khu và cơ sở. Các nội dung lãnh đạo của Đảng về quốc phòng tiếp tục được bổ sung. Cơ chế hoạt động và trách nhiệm phối hợp của từng cấp, từng ngành, từng địa phương trong các hoạt động liên quan đến quốc phòng, đặc biệt khi xử lý các tình huống phức tạp được quy định ngày càng rõ ràng và hoàn thiện.
Cải cách hành chính nhằm làm cho bộ máy nhà nước trên lĩnh vực quốc phòng hoạt động ngày càng hiệu quả là công tác có tầm quan trọng đặc biệt. Mục tiêu của cải cách hành chính là xây dựng hệ thống hành chính và quản lý hành chính nhà nước về quốc phòng thông suốt, có đủ quyền lực, năng lực, hiệu quả với 3 nội dung chủ yếu là cải cách thể chế của nền hành chính; chấn chỉnh tổ chức bộ máy và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức.
Cơ cấu tổ chức quản lý Nhà nước về quốc phòng từ Trung ương đến cơ sở tiếp tục được điều chỉnh trên cơ sở xác định rõ cơ chế hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, cán bộ chuyên trách quốc phòng ở các bộ, ngành. Nhiệm vụ quốc phòng của các cơ quan, ban, ngành các cấp được thể chế hoá bằng pháp luật nhằm phát huy cao nhất quyền lực quản lý nhà nước về quốc phòng. Sự phân cấp quản lý nhà nước về quốc phòng giữa các cơ quan của Chính phủ với chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương được tiếp tục nghiên cứu để cụ thể hoá.
Một trong những chủ trương và giải pháp lớn về cải cách hành chính về quốc phòng là bảo đảm thực hiện dân chủ hóa đời sống chính trị của xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong bảo vệ Tổ quốc, trong thực hiện các nghĩa vụ và quyền lợi trên lĩnh vực quốc phòng. Các thủ tục hành chính trên lĩnh vực quản lý nhà nước về quốc phòng tiếp tục được cải cách đồng thời với xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách về quốc phòng trong sạch, có năng lực.
Cán bộ chuyên trách tại các cơ quan chức năng được tăng cường bồi dưỡng, hướng dẫn để phát huy vai trò làm tham mưu trong tổ chức thực hiện xây dựng và quản lý công tác quốc phòng. Quy chế quan hệ, phối hợp, hiệp đồng giữa các ban, ngành, các cấp hoạt động liên quan đến quốc phòng cần được xây dựng, hoàn thiện để phát huy sức mạnh tổng hợp của tất cả các lực lượng. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống chính sách trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân được nghiên cứu bổ sung, ban hành điều chỉnh cho phù hợp với đặc điểm, yêu cầu của tình hình mới để mọi công dân có đủ điều kiện thực hiện quyền và nghĩa vụ đối với nhiệm vụ quốc phòng.
File đính kèm:
Nội dung cùng chuyên mục
- Thể lệ Cuộc thi tìm hiểu truyền thống “80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam và 35 năm Ngày hội Quốc phòng toàn dân”
- Thể lệ Cuộc thi tìm hiểu 80 năm Ngày truyền thống Tổng cục Chính trị QĐND Việt Nam
- Công bố mẫu Biểu trưng Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam
- Hội nhập quốc tế và đối ngoại về quốc phòng
- Đấu tranh quốc phòng